Thứ Hai, 23 tháng 8, 2010

Hẹp ống sống thắt lưng


Ống sống là khoang rỗng của đốt sống, trong đó có tuỷ sống và các rễ thần kinh. Nếu ống sống bị hẹp sẽ chèn ép rễ tủy sống và các rễ thần kinh tương ứng gây ra nhiều biến chứng. Chẳng hạn hẹp ống sống thắt lưng sẽ gây đau lưng và đau dây thần kinh hông to lan xuống cả hai chân gây phản ứng dị cảm, đôi khi liệt cơ và rối loạn cơ tròn…
Nguyên nhân gây hẹp ống sống
Tổn thương cột sống gây hẹp ống sống.
Trong lâm sàng đối với một thương tổn đĩa đệm không chỉ có mức độ thoát vị cỡ lớn của phần thoát vị là có ý nghĩa quyết định tất cả mà còn phải quan tâm đến ống sống, nơi đĩa đệm có thể tránh những đụng độ trong quá trình vận động cột sống. Nếu khoang ống sống hẹp thì ngay những biến dạng nhỏ nhất cũng có thể gây nên đau đớn. Trong phẫu thuật, người ta gặp những lồi đĩa đệm thắt lưng tương đối nhỏ, không đủ để giải thích mức độ nặng của các triệu chứng lâm sàng, khi đó cần lưu ý tới độ rộng của ống sống thắt lưng.Nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã xác định nếu chỉ có hẹp ống sống thôi (nghĩa là không có thoát vị đĩa đệm) cũng có thể có các triệu chứng lâm sàng giống như bệnh do đĩa đệm.
Những nguyên nhân gây hẹp ống sống thắt lưng là: Bẩm sinh: loạn dưỡng sụn, dị dạng đốt sống, hẹp ống sống nguyên phát, quá ưỡn cột sống thắt lưng, gai đôi cột sống, trượt đốt sống, hẹp ống sống sau chấn thương, biến đổi thoái hoá: phản ứng xương ở các cạnh và khớp đốt sống. Mắc phải: biến đổi thoái hoá như lồi đĩa đệm, giả trượt đốt sống; hẹp ống sống sau phẫu thuật: sau phẫu thuật cố định cứng, tổ chức sẹo; bệnh xương toàn thân: bệnh nhiễm độc flo (fluorose), bệnh Paget. Hỗn hợp: hẹp ống sống nguyên phát kết hợp với biến đổi thoái hoá. Hẹp ống sống là một thể biến dạng của cỡ kích thước ống sống bị hẹp so với cỡ kích thước bình thường, tương ứng với các tổ chức có liên quan, cùng lứa tuổi. Người ta không xếp vào đây quá trình viêm (viêm đốt sống) các u và thoát vị đĩa đệm hoàn toàn. Như vậy chỉ có nguyên nhân bẩm sinh và mắc phải gây nên hẹp lòng ống sống.
Ngoài ra hẹp ống sống có thể do xương (cung, thân đốt sống), cũng có thể do tổ chức mềm gây nên (đĩa đệm, tổ chức liên kết). Tùy theo nguyên nhân, hẹp ống sống có thể ở từng đoạn hay cả toàn bộ ống sống. Sau khi mổ ống sống thắt lưng, hẹp ống sống có thể xảy ra do các mảng sẹo hoặc do sự phát triển chồng áp lên nhau ở phía trong cung đốt sống sau phẫu thuật bất động cột sống ở phía sau. Các phẫu thuật làm cứng đốt sống cũng có thể xuất hiện tình huống tương tự. Trong các nguyên nhân gây hẹp ống sống, cần lưu ý dạng kết hợp hẹp ống sống trên cơ sở của quá trình thoái hoá do những phản ứng mọc gai xương ở các diện khớp nhỏ, những chỗ vồng lên của giới hạn sau của đĩa đệm và những dạng xô lệch giữa các đốt sống với nhau trong thoái hoá đĩa đệm cột sống thắt lưng, với tình trạng hẹp ống sống nguyên phát bẩm sinh. Dạng kết hợp gây hẹp ống ống này đã đóng vai trò quan trọng trong nguyên nhân của bệnh lý hẹp ống sống.
Một lồi đĩa đệm tương đối nhỏ của vòng sợi ở phía lưng hoặc những gai xương nhỏ ở bờ đốt sống trong thoái hoá cũng có thể gây đau đớn nặng nề do hẹp ống sống.
Hẹp ống sống nguyên phát có thể do các ngách bên của ống sống bị san phẳng (mất độ hõm) hoặc đường kính trước – sau của ống sống hay khoảng cách liên cuống đốt sống bị ngắn lại.
Như phần trên đã nêu, các rễ thần kinh ở cột sống thắt lưng dưới, sau khi đi ra khỏi bao cứng chạy trên mặt đĩa đệm ngay sát bên dưới, qua ngách bên của ống sống và ra lỗ liên đốt. Rễ thần kinh có khả năng bị cản ép ở tất cả các đoạn trên đường đi mà thường là do những nguyên nhân kết hợp.
Trong thoái hoá đĩa đệm, các đốt sống xích lại gần nhau hơn, khoang gian đốt sống bị mỏng đi chủ yếu ở phần sau. Do đó khớp phía trên của thân đốt sống thắt lưng cuối cùng xô dịch ra phía trước.
Trong hẹp ống sống bẩm sinh do ngách bên của ống sống nhỏ, có thể đĩa đệm bị kết thể, kèm theo những phản ứng gai xương áp chồng lên nhau nên không những nhiều rễ thần kinh mà đuôi ngựa cũng bị chèn đẩy. Vì những biến đổi này ở trong giai đoạn tiến triển của thoái hoá đĩa đệm nên những bệnh nhân có hội chứng hẹp ống sống thắt lưng thường gặp ở tuổi già.
Hiện nay bằng kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh (chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ), hẹp ống sống được chẩn đoán rất chính xác. Theo Verbiest đường kính trước – sau của ống sống vùng thắt lưng nếu nhỏ hơn 10mm thì được coi như là hẹp tuyệt đối. Nếu 10 -12mm là hẹp tương đối.
Chấn thương gây hẹp ống sống.
Biểu hiện khi bị hẹp ống sống
Hẹp ống sống thắt lưng người ta thường gọi là hội chứng hẹp ống sống thắt lưng. Bệnh nhân thường than phiền về đau lưng và dây thần kinh hông to trong nhiều năm và đã điều trị nhiều không khỏi. Đau đa dạng, trải qua đau mạn tính đến đau dây thần kinh hông to, rồi đến đau dây thần kinh đùi cả ở hai bên và cuối cùng là cả đau rễ thần kinh kiểu lan xuyên xuống hai chân. Hai chân có phản ứng dị cảm, đôi khi liệt cơ và rối loạn cơ tròn kiểu kín đáo. Duỗi cột sống quá sẽ gây đau nên bệnh nhân có tư thế đi hơi ngả người về phía trước. Nếu đau thắt lưng và đau các rễ thần kinh khi đi hay đau tăng do đi lại và buộc bệnh nhân phải dừng lại thì được gọi là khập khễnh cách hồi rễ thần kinh. Nếu đuôi ngựa bị xâm phạm có thể xuất hiện khập khễnh cách hồi của đuôi ngựa (đuôi ngựa là nơi hội tụ của rất nhiều rễ thần kinh thắt lưng – cùng). Biểu hiện: giảm cảm giác, muộn hơn có đau và chuột rút cả hai chân sau khi đi một đoạn đường hoặc đứng lâu. Người ta cho rằng do hẹp ống sống nên dẫn đến thiếu máu cục bộ của rễ đuôi ngựa. Đau mang tính chất phụ thuộc vào tư thế và liên quan đến khoanh đoạn tủy tương ứng là những đặc điểm quan trọng để chẩn đoán đau do nguyên nhân mạch máu.
Khập khễnh cách hồi đuôi ngựa xuất hiện trước hết khi bị áp lực trọng tải trong tư thế ưỡn cột sống. Đặc trưng của đau đó là: đau chân tăng mạnh khi đi xuống dốc, xuống thang và lại ngừng đau khi cúi nhẹ ra trước. Chẩn đoán phân biệt với trượt đốt sống do tiêu eo đốt sống (lyse isthmique) vì cũng có hội chứng này và ngoài ra còn chẩn đoán phân biệt với suy yếu khớp.
Điều trị hẹp ống sống
Chỉ được đặt ra khi đã chẩn đoán xác định. Trước tiên cần phải áp dụng các biện pháp điều trị giống như chứng đau do đĩa đệm. Nếu điều trị bảo tồn không có kết quả thì chỉ định phẫu thuật. Phương pháp nới rộng bằng thủ thuật cắt nửa cung sau hoặc toàn bộ cung sau đốt sống ở đoạn có hẹp ống sống. Mục đích của phẫu thuật là giải phóng sự chèn đẩy. Nếu rễ thần kinh ở ngách bên bị chèn ép do ngách bên bị mất độ lõm sâu, có thể chỉ cần cắt bỏ một phần diện khớp trên. Trường hợp có hội chứng ở cả hai bên cần chỉ định cắt toàn bộ cung sau, kết quả điều trị phẫu thuật thường là tốt.
PGS. Vũ Quang Bích-SKĐS

BÀI TẬP ĐAU LƯNG 2

Kỳ 2: Bài tập trong tháng thứ 2
Khi bạn kết thúc tháng thứ nhất tập luyện, chắc chắn bạn đã nhận được kết quả từ những nỗ lực của mình. Tuy nhiên, phương pháp luyện tập này đòi hỏi bạn phải có tính kiên trì và điều độ. Bài viết sau đây sẽ hướng dẫn bạn bước vào tháng thứ 2 tập luyện với những động tác giúp chứng đau lưng của bạn giảm đáng kể.
Bài tập 5 (hình thước thợ)
Không áp dụng bài tập này cho người có hội chứng rễ thần kinh (đau từ thắt lưng lan xuống mông và chân). Nằm ngửa trên sàn, hai tay xuôi theo người, lòng bàn tay úp xuống sàn, hai chân khép sát nhau duỗi thẳng, thở đều.
+ Chân phải duỗi thẳng các ngón và bàn chân, chân trái vẫn thả lỏng, bắt đầu hít vào từ từ, đồng thời nâng chân phải lên đến khi chân phải thẳng góc với mặt sàn, trong khi các bộ phận khác của cơ thể vẫn giữ nguyên không xoay vặn. Thời gian làm động tác này khoảng 5 giây.
+ Khi chân phải đã ở tư thế thẳng đứng, nín thở và giữ ở tư thế này khoảng 5 giây.
+ Bắt đầu thở ra từ từ và hạ chân phải xuống sàn, thời gian thở ra hết kéo dài khoảng 5 giây.
+ Nằm thư giãn khoảng 5 giây, thở đều rồi bắt đầu tập với chân kia như trên. Mỗi chân tập 5 lần xen kẽ nhau, tổng số 10 lần.
Bài tập 6 (cái ê - ke)
Không áp dụng bài tập này cho người có hội chứng rễ thần kinh (đau từ thắt lưng lan xuống mông và chân). Nằm ngửa trên sàn, hai chân thẳng và khép sát nhau, duỗi thẳng các ngón chân và hai bàn chân.
+ Bắt đầu hít vào từ từ, đồng thời nâng cả hai chân ở tư thế duỗi thẳng và khép sát nhau, đến khi hai chân thẳng góc với mặt sàn. Trong lúc nhấc chân lên không làm xoay vặn các phần khác của cơ thể. Thời gian làm động tác này khoảng 5 giây.
+ Khi hai chân đã ở tư thế thẳng đứng, nín thở và giữ ở tư thế này khoảng 5 giây.
+ Bắt đầu thở ra từ từ và hạ hai chân xuống sàn. Thời gian thở ra khoảng 5 giây, kết thúc khi hai chân đặt xuống sàn.
+ Nằm thư giãn, thở đều 5 - 10 giây rồi lặp lại bài tập trên 10 lần.
Bài tập 7 (ôm gối)
Nằm ngửa trên sàn, hai tay xuôi theo người, bàn tay úp xuống sàn, thở đều.
+ Từ từ hít vào và nâng đầu gối bên phải lên, áp đùi vào ngực. Bàn tay phải đỡ phía trước cổ chân phải, bàn tay trái giữ đầu gối phải, ngón cái của các bàn tay không đối diện với các ngón khác mà cùng phía với nhau, ép đùi sát vào ngực, cẳng chân sát vào đùi, lưng vẫn giữ thẳng và sát mặt sàn. Động tác trên kéo dài khoảng 5 giây.
+ Giữ ở tư thế trên khoảng 5 giây và nín thở.
+ Từ từ thở ra và đưa chân phải cùng hai tay về vị trí ban đầu. Động tác này kéo dài khoảng 5 giây.
+ Nằm thư giãn khoảng 5 giây, thở đều rồi tập với chân trái. Mỗi chân tập 5 lần xen kẽ nhau, tổng số 10 lần.
PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm

BÀI TẬP ĐAU LƯNG 2

 
Kỳ 3: Các bài tập thêm
Để quá trình điều trị và dự phòng đau cột sống thắt lưng đạt hiệu quả tối ưu, ngoài những bài tập cụ thể dành cho tháng đầu tiên và tháng thứ 2, chúng tôi cung cấp thêm đến bạn đọc một số bài tập thêm. Những bài tập này không những giúp bạn thoát khỏi chứng đau thắt lưng mà còn giúp bạn có được vòng 2 như ý.
Bài tập 8
Đứng trên sàn ở tư thế thẳng, hai tay xuôi theo người, thở đều.
+ Bước chân phải lên trước cách mũi chân trái 60cm, hai bàn tay chống lên bờ xương chậu, thở đều.
+ Từ từ hít vào, chùng chân phải để gối gập trên 90o, chân trái duỗi thẳng, ưỡn lưng và ngửa đầu tối đa. Thời gian làm động tác này khoảng 5 giây.
+ Nín thở và giữ ở tư thế trên khoảng 5 giây.
+ Từ từ thở ra và duỗi thẳng chân phải, đưa đầu và nửa thân người phía trên về tư thế thẳng. Động tác này kéo dài khoảng 5 giây.
+ Kéo chân phải về sát chân trái, trở về tư thế đứng thẳng ban đầu, hai tay xuôi theo người, thở đều, thư giãn 5 - 10 giây rồi làm lại động tác trên với chân trái. Mỗi chân tập 5 lần xen kẽ nhau, tổng số 10 lần.
Bài tập 9
Đứng trên sàn như bài tập 8, hai chân mở bằng vai, hai bàn tay đặt lên bờ trên xương chậu.
+ Từ từ hít vào, ưỡn cong cột sống thắt lưng về phía trước, nửa người trên từ rốn tới đầu ngửa tối đa. Động tác này kéo dài khoảng 5 giây.
+ Giữ ở tư thế trên và nín thở khoảng 5 giây.
+ Từ từ thở ra, đưa thân người phía trên và đầu về tư thế thẳng đứng, hai bàn tay vẫn đặt ở bờ trên xương chậu. Động tác này kéo dài khoảng 5 giây.
+ Thả hai tay xuống, thư giãn ở tư thế đứng, thở đều 5 - 10 giây rồi lặp lại bài tập trên 10 lần.
Bài tập 10
 Nằm ngửa trên sàn, hai tay xuôi theo người, bàn tay úp xuống sàn, hai chân khép sát nhau duỗi thẳng, thở đều.
+ Duỗi thẳng bàn và các ngón chân phải, từ từ hít vào và nâng chân phải lên khi tạo với mặt sàn một góc 45o thì dừng lại. Chân trái và thân người vẫn giữ nguyên và áp sát mặt sàn. Động tác này kéo dài khoảng 5 giây.
+ Nín thở, giữ chân phải thẳng ở tư thế nâng 45o trong thời gian khoảng 5 giây.
+ Từ từ thở ra và hạ chân phải xuống mặt sàn, trở về tư thế ban đầu. Động tác này kéo dài 5 giây.
+ Nằm ở tư thế ban đầu, thở đều và thư giãn 5 - 10 giây rồi lặp lại với chân trái. Mỗi chân tập 5 lần, tổng số 10 lần.
 Bài tập 10.
Bài tập 11

Nằm ngửa trên sàn, hai tay xuôi theo người, bàn tay úp xuống sàn, hai chân khép sát nhau duỗi thẳng, thở đều.
+ Duỗi thẳng bàn chân và các ngón chân, từ từ hít vào và nâng hai chân lên khi tạo với mặt sàn một góc 45o thì dừng lại, hai chân vẫn duỗi thẳng và khép sát nhau. Động tác này kéo dài khoảng 5 giây.
+ Nín thở, giữ hai chân ở tư thế trên khoảng 5 giây.
+ Từ từ thở ra và hạ hai chân xuống mặt sàn, trở về tư thế ban đầu. Làm động tác này trong khoảng 5 giây.
+ Nằm thư giãn và thở đều khoảng 5 - 10 giây sau đó lặp lại bài tập trên 10 lần.
+ Các bài tập làm vững cơ thành bụng: các bài tập này được áp dụng vào tháng thứ hai, tháng thứ nhất tập các bài tập 1 - 4.
 Bài tập 11.
Bài tập 12 (Cánh cung)

Nằm sấp, hai tay xuôi dọc hai bên thân, hai chân duỗi và khép sát nhau. Thả lỏng hoàn toàn các cơ lưng, nâng cằm lên trong khi gập hai gối, duỗi thẳng hai bàn chân, hai tay nắm lấy hai cổ chân, ngón cái không đối diện mà cùng phía các ngón khác.
+ Chỉ dùng lực của hai chân để thực hiện động tác, hai tay thụ động dùng để nối liền hai vai và cổ chân như một dây cung. Căng mạnh các cơ đùi và bắp chân, kéo mạnh bàn chân ra sau. Trong cả quá trình làm động tác, cơ lưng phải thả lỏng, nếu cơ lưng mà căng thì động tác không thực hiện được. Cuối động tác, đầu gối phải được nâng cao hơn cằm, đúng nhất phải ngang đỉnh đầu. Xương mu không chạm sàn, trọng lượng của cơ thể nằm ở vùng mũi ức thì hiệu quả mới tốt, nội tạng mới được xoa bóp mạnh.
+ Khi toàn thân ở vị trí hình cánh cung thì bắt đầu dao động đung đưa trước - sau như cưỡi ngựa gỗ. Lúc đầu đu đưa nhẹ, sau tăng dần, lần lượt bụng rồi đến ngực và kết thúc là đùi chạm sàn. Có thể làm từ 5 - 10 dao động, khi dao động có thể hít vào khi ngẩng đầu lên, thở ra khi đầu dao động xuống hoặc thở theo nhịp bình thường.
+ Cuối cùng duỗi chân ra sau để từ từ trở về vị trí ban đầu, nghỉ và thư giãn 10 - 15 phút.
Bài tập này có nhiều tác dụng phối hợp, tốt cho nội tiết và tiêu hóa, hạn chế thoái hóa đĩa đệm, duy trì mật độ khoáng của xương, chống loãng xương, làm mạnh các cơ đùi, bụng. Tác động mạnh lên đám rối dương gây hoạt hóa thần kinh thực vật, chống được béo phì và làm giảm dần lớp mỡ dưới da bụng.
PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm

BÀI TẬP ĐAU LƯNG

Kỳ 1: Các bài tập trong tháng đầu tiên
Đau cột sống thắt lưng là một chứng bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra, gặp ở mọi lứa tuổi, cả nam, nữ. Ngoài việc dùng thuốc dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số bài tập có tác dụng tốt trong điều trị cũng như dự phòng tái phát bệnh.
Đối tượng nào nên tập cột sống thắt lưng?
Các bài tập cột sống thắt lưng được áp dụng cho các bệnh nhân đau thắt lưng mạn tính hoặc để dự phòng đau thắt lưng tái phát do thoái hoá đĩa đệm hoặc thoát vị đĩa đệm nhẹ và vừa. Trong đó có bài tập tác dụng làm dãn cột sống, tác dụng tương tự như kéo dãn cột sống thắt lưng, có bài tập làm mạnh các cơ thành bụng và khối cơ lưng, giúp giữ vững cột sống thắt lưng. Các bài tập đều có tác dụng tăng cường dinh dưỡng cho đĩa đệm, phục hồi chức năng vận động của cột sống. Cần tập hằng ngày, mỗi ngày một đến hai lần, mỗi lần 30 phút, mỗi tuần ít nhất năm ngày. Với người đau thắt lưng cần tập một đợt ít nhất hai tháng. Một người tập luyện đều đặn sẽ duy trì được một cột sống trẻ lâu, chậm thoái hóa đĩa đệm, khả năng chịu đựng lực trọng tải của cột sống tốt hơn, các động tác trở nên thuần thục, có khả năng tránh được các tổn thương do các chấn thương hoặc các động tác sai tư thế đến bất ngờ trong lao động hoặc sinh hoạt. Với những người cao tuổi, phụ nữ sau mạn kinh, tập luyện còn làm giảm được bệnh lý loãng xương.
Nguyên tắc khi tập luyện
Cần tập khởi động nhẹ nhàng trước khi thực hiện bài tập như chạy tại chỗ, tập vài động tác thể dục buổi sáng. Khi áp dụng một bài tập nào đó thì trong quá trình tập cũng như sau tập, người bệnh phải cảm thấy dễ chịu, không đau tăng. Nếu thấy đau tăng cần điều chỉnh lại kỹ thuật của bài tập, có thể do vận động nhanh, đột ngột hoặc vận động quá tầm có thể chịu đựng. Nếu sau điều chỉnh vẫn thấy đau tăng cần ngừng bài tập đó.
Các động tác trong bài tập cần được làm từ từ, không được làm nhanh, mạnh hay đột ngột. Tập theo những giới hạn mà cơ thể người tập có thể làm được. Nếu không làm được đầy đủ một động tác thì làm một nửa hoặc ít hơn, rồi tăng dần.
Một lần tập nên kéo dài 30 phút đến một giờ, kể cả thời gian thư dãn. Kết thúc buổi tập cần thư dãn ít nhất 10 phút ở tư thế nằm thoải mái hoặc lặp lại các động tác khởi động như trước buổi tập. Tập hàng ngày, mỗi ngày một đến hai lần, một tuần ít nhất tập năm ngày, một đợt ít nhất hai tháng.
 
 
 
Các bài tập có tác dụng làm dãn cột sống và làm mạnh khối cơ lưng:
Bài tập 1 (con châu chấu)
Người tập nằm sấp trên sàn, mặt nghiêng về một bên, hai tay xuôi theo người, bàn tay úp xuống mặt sàn, hai chân khép, thở đều.
+ Từ từ hít vào và nâng chân phải lên trong khi chân phải vẫn giữ thẳng, nâng càng cao càng tốt. Chân trái vẫn duỗi thẳng và sát mặt sàn, cột sống lưng hơi ưỡn về phía trước. Thời gian từ lúc bắt đầu nâng chân đến khi nâng tối đa khoảng 5 giây.
+ Nín thở và giữ ở tư thế này khoảng 5 giây.
+ Từ từ thở ra và hạ chân phải xuống mặt sàn, động tác này kéo dài khoảng 5 giây.
Nghỉ khoảng 5 giây, thở đều rồi làm lại động tác trên với chân trái. Mỗi động tác làm 5 lần luân phiên chân phải rồi chân trái, tổng cộng 10 lần.
Bài tập 2 (con bò cạp)
Tư thế nằm sấp như bài tập 1.
+ Hai chân khép, từ từ hít vào và nâng hai chân lên khỏi mặt giường càng cao càng tốt, hai chân vẫn thẳng, bàn và ngón chân duỗi, cột sống thắt lưng cong ưỡn về phía trước. Thời gian làm động tác này khoảng 5 giây.
+ Nín thở và giữ ở tư thế này khoảng 5 giây.
+ Từ từ thở ra và hạ hai chân xuống sát mặt sàn, thời gian làm động tác này khoảng 5 giây.
+ Nằm thư dãn 10 giây, thở đều rồi làm lại động tác trên 10 lần.
Bài tập 3 (con thằn lằn)
Nằm sấp trên sàn, hai bàn tay úp sấp đặt trên sàn ngang hai vai. Hai khuỷu tay co và khép sát người, hai chân duỗi thẳng, đặt cằm trên sàn nhìn thẳng về phía trước.
+ Từ từ hít vào chậm và sâu, đẩy tay nâng nửa thân người phía trên lên, ưỡn đầu và ngực tối đa để phần trên rốn trở lên được nâng lên. Ở tư thế này, bàn chân được duỗi căng hết mức, mũi bàn chân không nhấc khỏi sàn, cột sống thắt lưng cong ưỡn về phía trước. Thời gian làm động tác này khoảng 5 giây.
+ Nhìn lên trần, nhịn thở, giữ ở tư thế này khoảng 5 giây.
+ Từ từ thở ra chậm và hạ đầu xuống dần, tựa má xuống sàn. Thời gian làm động tác này khoảng 5 giây.
+ Toàn thân thả lỏng, thư dãn, thở đều khoảng 5 giây rồi lặp lại bài tập trên 10 lần.
Bài tập 4 (cầu vồng)
Nằm ngửa trên sàn, hai tay xuôi theo người, bàn tay úp xuống mặt sàn, hai chân duỗi thẳng khép sát nhau, thở đều.
+ Co hai chân để hai cẳng chân vuông góc với mặt sàn, từ từ hít vào và nâng mông lên tối đa, chỉ còn hai bả vai, đầu và hai bàn chân tiếp xúc với mặt sàn. Động tác này kéo dài khoảng 5 giây.
+ Giữ ở tư thế hình cầu vồng như trên khoảng 5 giây và nín thở.
+ Từ từ thở ra và hạ mông xuống sát mặt sàn, thời gian làm động tác khoảng 5 giây.
+ Thở đều, duỗi thẳng chân, thả lỏng, thư dãn 5 - 10 giây rồi lặp lại bài tập trên 10 lần.
PGS.TS. Hà Hoàng Kiệm
Theo SK&ĐS

Thứ Tư, 18 tháng 8, 2010

Đánh giá hiệu quả sử dụng chỉ khâu phẫu thuật cấy ghép vào huyệt đạo điều trị - phục hồi chức năng thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Đánh giá hiệu quả sử dụng chỉ khâu phẫu thuật cấy ghép vào huyệt đạo
điều trị - phục hồi chức năng thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng

Chủ nhiệm đề tài:
TTUT BS chuyên khoa cấp 1 Quách Tuấn Vinh
Cộng sự:
1. Thượng tá, thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Đình Thanh
Phó chủ nhiệm khoa đông y BVTƯQĐ 108
2. Bác sĩ Nguyễn ĐắcLương
Chủ nhiệm khoa đông y BV Hoài Đức – Hà Nội
3. Y sĩ Nguyễn Thị Thanh
Kỹ thuật viên cấy chỉ - Phòng chẩn trị y học cổ truyền Minh Quang
HÀ NỘI - 2010

Năm 1934, thuật ngữ “thoát vị đĩa" được Mixter và Barr đầu tiên đưa ra sau quan sát một nhân nhầy đĩa đệm thoát khỏi vị trí bình thường, đè ép vào rễ thần kinh liền kề. Đây là một nguyên nhân phổ biến của đau lưng, đau thần kinh tọa. (1).
Ở Việt Nam, thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng cũng là một bệnh phổ biến. Theo giáo sư Hồ Hữu Lương, đau thắt lưng là một hội chứng thường gặp nhiều ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Theo số liệu điều tra mới nhất, nước ta có khoảng 17,41 % số người mắc bệnh về xương khớp bị THCS và TVĐĐ (con số này trên thế giới là 20 %). Giống như các quốc gia trên thế giới, tỉ lệ nam giới tại Việt Nam mắc bệnh này thường cao gấp 2 lần phụ nữ. Theo Giáo sư thần kinh Sahrakar Kamran thuộc Đại học California (4), gần 5% nam giới và 2,5% phụ nữ trải nghiệm đau thần kinh tọa tại một số thời gian trong đời của họ.
Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị - PHCN bệnh TVĐĐ. Cả nội khoa và ngoại khoa. Hiệu quả điều trị và các biến chứng do ngoại khoa còn là vấn đề quan tâm của cả thầy thuốc cũng như bệnh nhân. Theo PGS.TS Nguyễn Văn Thông, hiện 90-95% bệnh nhân bị bệnh THCS và TVĐĐ được điều trị theo hướng bảo tồn, 5% còn lại phải nhờ đến phẫu thuật. Đây là bệnh lý phức tạp, khó điều trị; nếu không được phát hiện và chạy chữa kịp thời có thể gây ra những biến chứng nặng như liệt, teo cơ, tàn phế.
Theo giáo sư thần kinh Sahrakar Kamran: Bệnh thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng chiếm một lượng lớn lực lượng lao động. Vấn đề điều trị còn gây tranh cãi. Điều trị thất bại không phải là hiếm gặp và có thể dẫn đến kiện tụng. Kết quả là có thể lầm mất uy tín của thầy thuốc ở một số bệnh nhân.
Có nhiều phương pháp điều trị - phục hồi chức năng bệnh TVĐĐ. Sử dụng chỉ khâu phẫu thuật (catgut) cấy ghép vào huyệt đạo được coi là một phương pháp châm cứu hiện đại đã được áp dụng tại Phòng chẩn trị y học cổ truyền Minh Quang số 10D Lý Nam Đế Hà Nội
Nhằm đánh giá hiệu quả điều trị - PHCN bệnh thoát vị đĩa đệm bằng phương pháp cấy chỉ. Nhóm nghiên cứu lựa chọn ngẫu nhiên 60 bệnh nhân mắc bệnh TVĐ Đ đến khám và điều trị tại Phòng chẩn trị y học cổ truyền Minh Quang trong năm 2008 và 2009. Không phân biệt giới tính, tuổi tác và nghề nghiệp. Có chụp MRI chẩn đoán xác định thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Tham gia điều trị tối thiểu 05 lần nếu chưa có kết quả.

Kết quả nghiên cứu cho thấy:


1. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ nam nữ là tương đương như nhau. Theo đánh giá của PGS.TS Nguyễn Văn Thông, giám đốc trung tâm đột quỵ 108 là tỷ lệ nam giới mắc bệnh nhiều gấp 2 lần nữ giới. Nghiên cứu của HHL (1986) tỷ lệ nam giới mắc bệnh chiếm 82% (3- trang 97).
2. Độ tuổi 41-60 tuổi mắc bệnh chiếm tỷ là cao nhất là 58,34%. Tương đương nhận xét của Hồ Hữu Lương. Đây là độ tuổi lao động có thâm niên nghề và kinh nghiệm nghề nghiệp. Khác với nghiên cứu của HHL trên 61 bệnh nhân TVĐĐ thắt lưng đã điều trị tại khoa thần kinh viện QY 103 từ 1983-1985, đa số xảy ra ở lứa tuổi 20-49 (91,8%), ở lứa tuổi 20-39 chiếm 75,4%. Trong nghiên cứu này, độ tuổi 20-40 chỉ chiếm 20%.
3. Theo HHL (1986), 39% đối tượng mắc bệnh TVĐ Đ CSTL làm nghề lao động mang vác nặng. Trong nghiên cứu này, đối tượng mắc bệnh là trí thức, nhân viên văn phòng chiếm tỷ lê cao nhất là 45%, cao hơn hẳn đối tượng lao động chân tay chỉ chiếm 23,33%. Có thể, nguyên nhân ít vận động chân tay, ngồi nhiều là một trong những yếu tố cần xem xét có khả năng dẫn đến thóat vị đĩa đệm CSTL.
4. Thời gian mắc bệnh trên 12 tháng mới đến khám và điều trị bằng phương pháp cấy chỉ chiếm tỷ lệ đa số 70%.
5. Theo HHL (1986), TVĐĐ thường xẩy ra ở hai đĩa đệm cuối, các đĩa đệm khác ít gặp hơn. Phù hợp với nhận xét trong nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh nhân thoát vị ở vị trí L4-5 chiếm đa số các bệnh nhân. (46,67%). L5-S1 chiếm 16,67%. Các vị trí khác chiếm tỷ lệ thấp. Thoát vị đa tầng L4-5 và L5-S1 cũng chiếm tỷ lệ 15%. Thống nhất quan điểm của HHL các đĩa đệm đốt sống cuối L4 và L5 là đĩa đệm chịu áp lực cao của cả cột sống và là vùng bản lề nên hay xảy ra thoát vị nhất. Theo Ramachandran S Tarakad Giáo sư Thần kinh học, Giáo sư Y khoa lâm sàng, Giáo sư Y học lâm sàng gia đình, Giáo sư lâm sàng thần kinh thuộc Đại học bang New York: Khoảng 90% của tất cả các thoát vị đĩa đệm thắt lưng xảy ra ở L4-5 và L5-S1(8)
6. Nhóm bệnh nhân điều trị 1-4 lần chiếm tỷ lệ cao (79,99%): trong đó tỷ lệ bệnh nhân điều trị 3 lần có kết quả cao nhất: chiếm 31.66%. Chỉ 1 lần điều trị có kết quả chiếm 15% tổng số bệnh nhân. Số bệnh nhân phải nhiều lần điều trị chiếm tỷ lệ không cao.
7. Đáp ứng với phương pháp điều trị (Có kết quả) chiếm tỷ lệ cao 93,33%, trong đó kết quả loại A chiếm 63,33%. Không có kết quả chỉ chiếm 6,67%.
Trong đó: Số bệnh nhân điều trị <=5 lần chiếm có kết quả 80 %. Trong đó có 4 bệnh nhân không có kết quả. Trong khi số điều trị >=6 lần chỉ chiếm 13.33% nhưng đều đáp ứng điều trị. Không có ca nào không kết quả. Như vậy nếu bệnh nhân điều trị lkết quả chưa tốt nếu kiên trì điều trị vẫn có thể đạt kết quả.
8. So sánh kết quả điều trị so với một số nghiên cứu của các tác giả khác:
Tác giả    Phương pháp điều trị              Số bệnh nhân                       Kết quả điều trị
                                                                                Tốt            Khá        Trung bình      Kém
Trương Minh Việt     Bấm huyệt, xoa bóp    65          20             61.5         12
Lê Thị Tranh             Châm cứu                   33         18.18         51,52        24.24         6.06
Kết quả nghiên cứu   Cấy chỉ                       60          63.33        11.67        18.33        6.67

Tỷ lệ kết quả tốt cao hơn hẳn so với các phương pháp bấm huyệt, xoa bóp (của Trương Minh Việt) và châm cứu (của Lê Thị Tranh). Chứng tỏ hiệu quả điều trị - PHCN của phương pháp cấy chỉ là tốt hơn hẳn so với xoa bóp bấm huyệt và châm cứu.

KẾT LUẬN
1. Sử dụng chỉ khâu phẫu thuật cấy ghép vào huyệt đạo là một phương pháp điều trị - PHCN có hiệu quả tốt trong điều trị - PHCN thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng.
2. Tỷ lệ điều trị có đáp ứng (có kết quả) chiểm tỷ lệ cao 93.33% . Trong đó kết quả tốt (loại A+B) chiếm 75%. Không có kết quả chỉ chiếm tỷ lệ thấp 6.67%. So với phương pháp xoa bóp bấm huyệt và châm cứu thì cấy chỉ có kết quả tốt cao hơn hẳn.
3. Phương pháp ĐT-PHCN này có thể áp dụng phổ biến ở các cơ sở y tế (có chuyên khoa Đông y)


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mixter WJ, Barr JS. “Ruptu re of the intervert ebral disc with involvement of the spinal canal.” N Engl J Med 1934; 211:210-5
2. Karppinen J, et al. “Severity of Symptoms and Signs in Relation to Magnetic Resonance Imaging Findings Among Sciatic Patients.” Spine 2001; 26:E149-E154
3 Đau thắt lưng & thoát vị đĩa đệm. Giáo sư Tiến sĩ Hồ Hữu Lương. Nhà xuất bản Y học 2008
4. Lumbar Disc Disease. Author: Kamran Sahrakar, MD, FACS, Clinical Professor, Department of Neurosurgery, University of California at San Francisco. Coauthor(s): Martin Melicharek, MD, Assistant Clinical Professor, Department of Neurosurgery, University of California at Davis (http://emedicine.medscape.com)
5. Thoát vị đĩa đệm. BS. Nguyễn Văn Thanh. Yhocquany.com
6. Nghiên cứu hiệu quả của xoa bóp, bấm huyệt trong điều trị đau thần kinh hông to. BSCKII Trương Minh Việt, PGS TS Nguyễn Nhược Kim. Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học. Bộ Quốc phòng – Viện y học cổ truyền quân đội. Trang 348.
7. Đánh giá tác dụng điều trị đau dây thần kinh tọa bằng điện châm các huyệt trên kinh thận và kinh bang quang. Lê Thị Tranh. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa 2003
8. Disk Herniation. Author: Tarakad S Ramachandran, MBBS, FRCP(C), FACP, Professor of Neurology, Clinical Professor of Medicine, Clinical Professor of Family Medicine, Clinical Professor of Neurosurgery, State University of New York Upstate Medical University; Chair, Department of Neurology, Crouse Irving Memorial Hospital (http://emedicine.medscape.com)
9. How Acupuncture Relieves Sciatica (Làm thế nào châm cứu giảm đau thần kinh tọa). Nicholas Steadman. http://translate.googleusercontent.com









Chủ Nhật, 8 tháng 8, 2010

THUỐC CHỮA THOÁT VỊ ĐĨA ĐỆM



Nhờ tính chất đàn hồi nên đĩa đệm làm nhiệm vụ như một bộ phận giảm sóc, giúp cho cột sống thực hiện chức năng vận động của mình (cúi, ngửa, nghiêng...) một cách mềm dẻo. Khi vòng sợi bao quanh bị rách, nhân nhầy thoát ra ngoài khỏi vị trí giữa hai đốt sống, thường là về phía sau gây chèn ép tủy sống hoặc các rễ thần kinh. Hiện tượng trên gọi là thoát vị đĩa đệm. Theo nhiều nghiên cứu, thoát vị đĩa đệm là nguyên nhân chủ yếu chiếm tới 80% các trường hợp đau cột sống thắt lưng.

Có nhiều nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm cột sống, trong đó phải kể đến các nguyên nhân hàng đầu là các chấn thương cột sống, sau đó là các tư thế xấu trong lao động. Các chấn thương vào vùng cột sống như ngã ngồi đập mông xuống đất, chấn thương tác động trực tiếp vào vùng cột sống hoặc các tư thế xấu như cúi, nghiêng hay xoay người nhấc vật nặng - đặc biệt nhấc vật nặng ở cách xa người dễ gây thoát vị đĩa đệm.

Tùy theo vị trí đĩa đệm thoát vị có thể có các triệu chứng khác nhau. Thoát vị đĩa đệm ở vùng cột sống thắt lưng hay gặp nhất (trên 90% các trường hợp thoát vị đĩa đệm cột sống) gây đau thắt lưng cấp hay mạn tính, đau thần kinh tọa một hay cả hai bên, đau thần kinh đùi bì. Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ gây đau cổ, đau vai gáy, đau cánh tay: hội chứng cổ - vai - cánh tay. Trường hợp nặng chèn ép vào tủy sống sẽ gây yếu cánh tay hoặc liệt tứ chi.
diadem1.jpg

Điều trị

Tùy theo tính chất tổn thương, vị trí, biến chứng cũng như mức độ ảnh hưởng tới khả năng vận động, lao động và sinh hoạt của người bệnh mà cân nhắc tới các biện pháp điều trị bảo tồn và điều trị can thiệp phẫu thuật. Điều trị bảo tồn bao gồm các biện pháp như: nghỉ ngơi; vật lý trị liệu xoa bóp, tắm suối khoáng, đắp bùn; chiếu đèn hồng ngoại, sóng ngắn, điện phân, đắp dầu paraphin... Có thể dùng các biện pháp như tác động cột sống, kéo giãn cột sống trong điều trị bệnh. Một vài tuần đầu tiên, khi tổn thương thoát vị đĩa đệm còn mới chưa bị xơ hóa, việc tác động cột sống làm giãn các mâm sống và dịch chuyển phần đĩa đệm bị lồi trở lại vị trí bình thường. Kéo giãn cột sống bằng dụng cụ cũng có tác dụng tương tự, chỉ định cho lồi hoặc thoát vị đĩa đệm. Mặc áo nẹp cột sống có tác dụng cố định tạm thời, hạn chế các động tác lên vùng cột sống tổn thương, qua đó giảm lực tác động lên đĩa đệm.

Biện pháp dùng thuốc bao gồm các thuốc giảm đau đơn thuần như paracetamol; giảm đau chống viêm không steroid như diclofenac, meloxicam... uống, tiêm hoặc bôi tại chỗ. Lưu ý các thuốc trên dùng đường toàn thân có thể ảnh hưởng tới dạ dày, chức năng gan, thận... Các thuốc giãn cơ như mydocalm, myonal được chỉ định trong trường hợp co cứng cơ cạnh cột sống. Có thể bổ sung các thuốc bổ thần kinh như vitamin B1, B6, B12; các thuốc giảm đau thần kinh như neurontin. Nhìn chung không có chỉ định dùng thuốc giảm đau chống viêm loại steroid như prednisolon, dexamethason... đường toàn thân vì có nhiều tác dụng phụ. Một số trường hợp hãn hữu như đau nhiều không đáp ứng với các biện pháp trên, đặc biệt kèm phù tủy có thể methylprednisolon đường tĩnh mạch liều cao, ngắn ngày, giảm liều nhanh nhưng phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa và phải được theo dõi chặt chẽ các biến chứng. Đối với đau thần kinh tọa do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng, có thể áp dụng biện pháp dùng thuốc tại chỗ là tiêm ngoài màng cứng bằng hydrocortison với liệu trình mỗi đợt 3 mũi, mỗi mũi cách nhau 3-7 ngày cũng cho hiệu quả giảm đau khá tốt. Tuy nhiên, việc tiêm ngoài màng cứng phải được thực hiện tại cơ sở chuyên khoa khớp có kinh nghiệm, trong điều kiện tuyệt đối vô khuẩn.

Gần đây, người ta bắt đầu sử dụng tia laser, sóng radio qua da để điều trị đau do thoát vị đĩa đệm. Đây là các phương pháp an toàn, tuy nhiên chỉ có hiệu quả khi chỉ định trong những trường hợp nhẹ, nhân nhầy mới chỉ lồi vào ống sống và không có các tổn thương kèm theo như gai xương, xẹp trượt đốt sống, hay phối hợp dày dây chằng vàng.

Phương pháp phẫu thuật ngoại khoa được chỉ định trong các trường hợp sau: thoát vị đĩa đệm gây hội chứng đuôi ngựa (biểu hiện bí đại, tiểu tiện, mất cảm giác đau xung quanh hậu môn và bộ phận sinh dục); có liệt chi; đau quá mức, các thuốc giảm đau không hoặc rất ít tác dụng; sau khoảng 6 tháng áp dụng các biện pháp điều trị nội khoa không có kết quả. Phẫu thuật nhằm giải phóng rễ thần kinh khỏi bị chèn ép. Bao gồm các biện pháp: Kinh điển là mổ cắt cung sau lấy bỏ khối thoát vị - nhìn chung là can thiệp rộng, nhiều biến chứng về sau, đặc biệt là tái phát đau do vết mổ cũ xơ dính. Về sau, các kỹ thuật được cải tiến hơn như phẫu thuật mở nhỏ (mini- open); cắt bỏ đĩa đệm qua da; mổ nội soi lấy nhân thoát vị; mổ nội soi hút nhân nhầy... Trường hợp tổn thương có trượt đốt sống phối hợp gây mất vững có thể cố định cột sống bằng khung kim loại. Phẫu thuật thay đĩa đệm mới nhìn chung ít được chỉ định.

Phòng thoát vị đĩa đệm

Cần rèn luyện để đạt được cơ thể khỏe mạnh và đặc biệt là một cột sống vững chắc ngay từ tuổi trẻ bằng chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý. Giữ gìn tư thế cột sống đúng trong lao động, học tập cũng như sinh hoạt hàng ngày; tránh cúi người khiêng vác vật nặng; tránh mọi chấn thương cho cột sống.

ThS. Bùi Hải Bình
suckhoedoisong.vn